Phân tích 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Đề bài: Phân tích 12 câu trong đoạn 3 bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Bài văn mẫu:
Để giúp các em lớp 12 chuẩn bị ôn thi THPT tốt nhất, cùng chia sẻ với các em các bài văn mẫu sau:
BÀI MẪU SỐ 1:
Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình Cách Mạng hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và cuộc sống Cách Mạng.
Bài “Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung. Có thế nói, “Việt Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
“Mình đi,có nhớ những ngày
…….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?”
“Việt Bắc” là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã “Thủ đô gió ngàn” để về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình” .Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi – người miền ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ “có nhớ”,điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại – một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: “Cán Bộ về xuôi, Cán Bộ có còn nhớ chiến khu Việt Bắc nữa không ?”. Để cho Việt Bắc hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ.
Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta” còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn,đầy gian khổ “miếng cơm chấm muối”. Hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thờ còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 – 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” – “rừng núi” chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người cán bộ về xuôi – nhằm nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ…Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng, măng mai để già” – “trám bùi và măng mai” là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là “đặc sản” của thiên nhiên Việt Bắc. “Mình về” khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi “trám bùi – măng mai” mà cũng không ai thu hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: “Cán Bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không ?”
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”
Cụm từ “nhớ những nhà” – biện pháp hoán dụ – gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không? Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm, nhớ đến nỗi ”hắt hiu lau xám”. Từ láy “hắt hiu” kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc “lau xám” càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng,đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là “tấm lòng son”, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc.
Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ “núi non”, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau “kháng Nhật”, “thuở còn làm Việt Minh” hay không ? Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với Cách Mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc – quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng – càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng. Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không ?”.
Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của dân tộc hay không?”. Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: sự kiện “cây đa Tân Trào” (12/1944), đây là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân Việt Nam – lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. Còn địa điểm thứ hai là tại đình “Hồng Thái” nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc CMT8; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội, có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà.
Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc chính là cái nôi của Cách Mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ ?”
Chỉ với 12 câu thơ trong khổ 3 của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”.
Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 đều đận, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.
“Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc” của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ “miếng cơm chấm muối, trám bùi, măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám…” đến “mối thù” hai vai chung gánh, những “tấm lòng son” sẽ không bao giờ phai nhạt,sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi ./.
BÀI MẪU SỐ 2:
I/ Mở bài :
_ Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, là cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
_ Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ trữ tình chính trị:Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa…
_ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp núi chung. Bài thơ là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam. Toàn bộ bài thơ là một hoài niệm lớn, day dứt khôn nguôi được thể hiện qua hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại .
Và đoạn thơ:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”
Là một trong những đoạn tiêu biểu cho tình cảm ân nghĩa thủy chung đó
II/ Thân bài
1/ (Xuất xứ chủ đề) Tháng 10.1954, khi TW Đảng và Chính phủ cùng cỏn bộ chiến sĩ rời chiến khu “Thủ đô gió ngàn” để về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình tiếp quản Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đó xúc động viết nên bài thơ này.
2/ ( Phân tích chi tiết)
_“Việt Bắc” là tác phẩm trường thiên,dài 150 câu lục bát, được cấu tạo theo lối đối đáp giao duyên của ca dao dân ca: Đối đáp giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa mặn nồng nay phải chia tay nhau kẻ đi người ở. Cả bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong kẻ ở và người đi trong câu hỏi và trong cả lời đáp. Nỗi nhớ cứ trở đi trở lại cồn cào da diết. Và trong đoạn thơ này, người ở lại đã khơi dậy một quá vãng đầy kỷ niệm.
Vẫn là lối xưng hô _ Mình _ ta như tình yêu đôi lứa trong ca dao dân gian, Tố Hữu đã lý giải cho mối quan hệ gắn bó giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc bằng giọng điệu ngọt ngào tha thiết Mười hai câu thơ tạo thành 6 câu hỏi.
+ Mình còn nhớ hay không những ngày tháng gian khổ:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù.
Ngày ấy “giặc đến giặc lùng”, để bảo vệ tổ chức cách mạng còn non trẻ, cán bộ và nhân dân Việt Bắc đã phải rút vào rừng sâu chịu cảnh “ăn tuyết nằm sương”, “nếm mật nằm gai” chờ thời cơ đến. Thời tiết ở đây khắc nghiệt, dữ dội “mưa nguồn suối lũ”; lạnh lẽo với những “mây cùng mù”. Đó không chỉ là những hình ảnh tả thực về sự khắc nghiệt của thời tiết Việt Bắc. Mà đó còn là những ẩn dụ nghệ thuật nói đến những tháng ngày gian nan vất vả của cán bộ và nhân dân Việt Bắc mà suốt đời họ có thể nào quên?
+ Mình còn nhớ hay không những cảnh sinh hoạt thiếu thốn
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
Ngày ấy, dân ta còn nghèo, trang thiết bị cho bộ đội còn thô sơ, lương thực thì lại càng hạn chế. Nhắc đến “miếng cơm chấm muối” hẳn ta và mình đều quặn lòng đau đớn. Nhưng họ tạm thời quên đi những khó khăn ấy bởi họ đang phải gánh vác một nhiệm vụ nặng nề, to lớn. Mối thù giặc Pháp đang đè nặng lên đôi vai của dân tộc. Vì thế họ sẵn sàng quên đi cái riêng, cái cá nhân để hòa vào cái chung, cái cộng đồng rộng lớn để quyết đánh và quyết thắng. Hai câu thơ như một lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 – 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, tha thiết.
+ Hỏi người ra đi chưa thỏa, Người Việt Bắc còn hỏi chính lòng mình:
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Rừng núi nhớ hay đồng bào Việt Bắc nhớ. Nghệ thuật hoán dụ kết hợp với nhân cách hóa, Tố Hữu đã diễn tả sinh động tấm lòng của đồng bào Việt Bắc đối với Cách mạng. Và khi “ai” đó đi rồi thì “trám bùi để rụng, măng mai để già” Trám và măng là lương thực chủ yếu của bộ đội ta khi còn ở Việt Bắc. Nay người đi rồi, trám để rụng, măng để già không người thu hái. Hóa ra không chỉ có con người nhớ nhung mà đến thiên nhiên cũng cảm thấy cô dơn trống vắng. Thiên nhiên như cũng nặng tình, nặng nghĩa với con người. Đại từ phiếm chỉ ai mơ hồ nhưng cũng thật xác định. “Rừng núi” – Người dân Việt Bắc có thể nhớ ai ngoài người cán bộ kháng chiến về xuôi . Câu thơ tô đậm cảm giác cô đơn, trống vắng của kẻ ở khi phải chia xa.
Và ở vào giờ phút bịn rịn này, khi về nơi phồn hoa đô hội, liệu “mình “ có còn nhớ tấm lòng của người dân Việt Bắc ?
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Những ngôi nhà lá đơn sơ, mộc mạc, nghèo khổ trong dáng vẻ “hắt hiu lau xám” gợi nỗi buồn hiu quạnh. Bên trong “những ngôi nhà” ấy lại chứa đựng tấm lòng son sắt thủy chung, nghĩa tình. . Hình ảnh thơ được đặt trong thế tương phản kết hợp với nghệ thuật hoán dụ, nhà thơ đã tô đậm tấm lòng của nhân dân Việt Bắc- những con người đã góp phần làm nên Điện Biên “Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu .
+ Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng.Nếu Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, thì các các cán bộ kháng chiến về xuôi có còn nhớ những kỷ niệm của một thời kháng chiến:
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Câu thơ như nhắc nhở người đi hãy nhớ về núi rừng Việt Bắc nơi căn cứ địa kháng chiến cùng với hai sự kiện lịch sử: “Khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”. Năm 1940 khi Nhật vào xâm lược nước ta. Núi non Việt Bắc bắt đầu vào cuộc chiến đấu. Năm 1941 Việt Nam độc lập đồng minh (còn gọi là Việt Minh) được thành lập. Đây là phong trào lớn mạnh đã tạo thành một mặt trận vũ trang góp phần làm nên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này.
Mình đi mình lại nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm. Câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không?
Thay “Ta” bằng “mình” để chỉ người Việt Bắc là Tố Hữu muốn nhấn mạnh: “Ta” và “Mình” đã hòa vào nhau . Dù kẻ ở, hay người đi đều cùng một tâm trạng buồn nhớ như nhau. Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo nghĩa: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình – nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không ? Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
Đoạn thơ được khép lạ bằng hình ảnh: Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa
Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22.12.1944 đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội VN tuyên truyền giải phóng quân (sau này là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam); Mái đình Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của Cách Mạng.
Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng chính là cái nôi của CM, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ Khơi dậy một quá vãng đầy kỷ niệm: cay đắng ngọt bùi, gian nan vất vả, người ở lại muốn khẳng định với người ra đi một điều: Nét đẹp cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo cực mà chân tình rộng mở, sắt son thuỷ chung với cách mạng, người cũng vậy mà thiên nhiên cũng vậy. Và cũng chỉ với 12 câu thơ Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái,ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng.
Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tó Hữu đã sử dụng rất khéo léo hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”.Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi – mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi,về Hà Nội.Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 – 4/4 , khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu.Thêm vào đó là một loạt câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ “nhớ” gợi cho ta cảm nhận được những cung bậc, những sắc thái khác nhau trong tâm trạng của người ở lại
III/ KẾT LUẬN :
Tóm lại, đoạn thơ trên không chỉ là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Mà nó còn tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: Giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian. Đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, Tố Hữu đã ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của Việt Bắc với người cán bộ kháng chiến
BÀI MẪU SỐ 3:
Nhắc đến Tố Hữu người đọc không thể nào quên được những danh hiệu xứng đáng như: nhà cách mạng lão thành, nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà thơ cách mạng lớn nhất của đất nước ở thế kỷ 20, nhà thơ lớn của dân tộc, nhà thơ lớn của thời đại.. Và đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của ông là bài thơ Việt Bắc. Bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với kháng chiến, cách mạng mà nó còn kết tinh trong đó những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của Tố Hữu. Điều này được thể hiện rõ ở khổ thơ:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Tào Hồng Thái mái đình cây đa”
Thật vậy, Việt Bắc là đỉnh cao để đời thơ Tố Hữu. Nó là tác phẩm trường thiên dài. Việt Bắc là quê hương của cách mạng, là căn cứ kháng chiến. Bài thơ viết vào tháng 10/1954, khi các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu việt Bắc trở về Hà Nội, để nhớ về những kỉ niệm đẹp nơi căn cứ địa ấy, ông đã chắp bút tạo nên một tác phẩm xuất sắc.
Mở đầu khổ 3 bài thơ, Tố Hữu đã khéo léo đưa ra những câu hỏi để bộc lộ tình cảm về những ngày tháng khi bên nhau giữa hai chủ thể giữa “ta” – “mình”. Nỗi nhớ ấy được bộc lộ ở trong câu từ bài thơ:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Đó là một tâm trạng quan tâm lo lắng của người ở lại bày tỏ nỗi niềm với người ra đi. Không biết khi cán bộ về xuôi có nhớ tới những con người kỉ niệm nơi chiến khu Việt Bắc với biết bao nhiêu yêu thương đong đầy vẫn còn vẹn nguyên như mới hôm qua. Với nỗi nhớ về thiên nhiên “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. Câu thơ lột tả vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ nhưng đầy bí hiểm của núi rừng Việt Bắc thơ mộng. Hình ảnh “chiến khu” với “miếng cơm chấm muối” thể hiện cuộc sống chiến đấu vô cùng khó khăn thiếu thốn nhiều gian truân.
Tố Hữu tinh tế khi sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ “mối thù nặng vai” khéo léo khiến ta liên tưởng đến mối thù chung của dân tộc lúc bấy giờ xen lẫn giọng điệu nhẹ nhàng như nhắc nhở tình nghĩa luôn nồng nàn và còn mãi trường tồn theo thời gian.
Mạch cảm xúc vẫn tiếp tục tuôn chảy để ông chắp bút:
“ Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”
Ở đoạn thơ này, Tố Hữu đã tiếp tục sử dụng biện pháp hoán dụ để diễn tả nỗi nhớ của người ở lại với cách mạng. Nỗi nhớ ấy như luôn kéo dài, nó da diết khó nói thành lời. Thiên nhiên việt Bắc như thấm nhuần nỗi nhớ. Tình cảm của người Việt Bắc lan tỏa vào cảnh vật khiến “trám bùi để rụng măng mai để già”. Đại từ “mình về” khiến rừng núi Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng hơn.
Cụm từ “nhớ những nhà” cũng gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết các bộ có nhớ tới Việt Bắc không? Từ láy “hắt hiu” kết hợp rất tài tình với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên. Nhưng đối lập với nó là hình ảnh tấm lòng chân thành của con người. Nhân dân Việt Bắc muốn họ nhớ “núi non”, nhớ thời kì kháng chiến “kháng Nhật” “thuở còn Việt minh”. Đó đều là những khoảng thời gian hạnh phúc, nhiều kỉ niệm khi cùng sát cánh bên nhau vượt qua mọi khó khăn, cùng nhau bảo vệ quê hương đất nước trước kẻ thù.
Tình cảm của người dân Việt Bắc vẫn tiếp tục tuôn chảy. Họ còn kể về những địa danh lịch sử hào hùng:
“Mình đi mình có nhớ mình
Tân Tào Hồng Thái mái đình cây đa”
Chỉ kết ngắn gọn với hai câu thơ ở khổ 3 đặc sắc này nhưng chính 2 câu thơ này tạo điểm nhấn rất lớn cho cả khổ này. Chỉ với hai câu thơ nhưng tình cảm mà Tố Hữu gửi gắm vào nó là vô cùng nhiều. Đặc biệt, ông đã khéo léo khi chỉ một từ “mình” được ông sử dụng nhưng nó mang tới hai nghĩa vừa chỉ người dân, vừa chỉ người cán bộ cách mạng về xuôi.
Nhà thơ đã hình dung ra được diễn biến tâm lí của con người sau chiến thắng. Đây là câu thơ mang tính triết lí cao. Ở câu cuối, nhà thơ đã nhắc về những địa danh lịch sử nổi tiếng ở Việt Bắc với những sự kiện quan trọng gắn liền với nó. Cây đa Tân Trào là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát còn mái đình Hồng Thái nơi Bác Hồ chủ trì cuộc họp quyết định làm cuộc cách mạng tháng tám. Tố Hữu đã đặt hai địa danh này ở cùng một câu thơ nhấn mạnh tầm quan trọng cũng như ý nghĩa lịch sử của nó.
Tóm lại, chỉ với 12 câu thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới kỉ niệm của cách mạng. Ông rất tinh tế và khéo léo trong việc hòa quyện giữa các biện pháp tu từ quen thuộc với những địa danh, đại từ “mình – ta” đặc sắc. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào mà sâu lắng được ông thể hiện một cách triệt để qua nhịp thơ nhẹ nhàng. Tố Hữu đã tạo ra một kiệt tác để đời bất hủ.
Xem thêm:
Thư viện đề thi
Cảm nhận về bài thơ Tây tiến của Quang Dũng
11 Đề thi thử THPT Quốc gia 2021 môn Ngữ Văn